Nhìn AiCâp Mong ViệtNam

Sunday, February 27, 2011

Dân Chúa hiệp thông theo Công đồng và Giáo luật


Gần đây, Nữ Vương Công Lý nhận được một số ý kiến phản ánh về hiện tượng có Giám mục đã trực tiếp can thiệp vào các dòng tu thuộc Giáo phận một cách rất thô bạo như buộc nhân sự từ chức khỏi chức vụ mình do Tổng Tu nghị bầu lên, can thiệp không cho Tổng tu nghị bầu cử đúng theo Hiến chương Hội Dòng những người có tín nhiệm chỉ bởi vì “Đức Cha không muốn”, thậm chí ép buộc Hội dòng ra quyết định cảnh cáo, trục xuất tu sĩ đã khấn trọn ra khỏi hội dòng mà không cần lý do chính đáng cũng như không cần cho đương sự biết lý do…
Những điều đó có đúng Giáo luật hay không?
Phần tiếp theo trong bản góp ý của linh mục VinhSơn Trần Tam Tỉnh gửi Đại hội Dân Chúa năm 2010 với tựa đề “Kính dâng Đại hội Dân Chúa 2010” đề cập chi tiết đến vấn đề đó. Trong bài viết, Linh mục Vinh Sơn Trần Tam Tỉnh có viết: “Thưa, điều đó không thể có được: vì không GMGP nào dám đi ngược lại quy định của Giáo Luật, vi phạm Hiến chương và luân thường đạo lý.”
Nhưng, trong Giáo hội trần thế, nhất là trong giai đoạn Giáo hội một số nơi đang bị khuynh loát bởi một số mục tử theo đường hướng “Quốc doanh” thì mọi điều có thể xẩy ra.
Mời bạn đọc theo dõi phần tiếp theo của tài liệu này để nhận xét và tìm hiểu thêm về Giáo luật. Những điểm chưa đúng, chưa đủ theo Giáo luật, xin quý vị có phản ánh với Nữ Vương Công Lý.
Mọi ý kiến đóng góp, xin gửi về hộp thư nuvuongcongly@gmail.com
(Tiếp theo Phần II)
D. Hiệp thông giữa giám mục và  tu sĩ .
Dòng tu và các cộng đoàn mang những danh hiệu khác nhau như tu hội đời, cộng đoàn tận hiến là thành phần Dân Chúa, ưu tú vì được coi như được Chúa lựa chọn một cách đặc biệt, được giáo dân tôn trọng và quý mến. Tuy không thuộc về phẩm trật Giáo Hội, thường gọi là Giáo phẩm, công tác của tu sĩ có một mức độ rất quan trọng nhất là trong những Giáo phận ít linh mục.
Ở Việt Nam, sự có mặt của tu sĩ trong Giáo phận không đồng đều, vì có Giáo phận con số dòng tu nam nữ phải kể hàng chục, có Giáo phận chỉ có một, hay chưa được một. Vấn đề hiệp thông tuy nặng nhẹ khác nhau, nhưng thể hiện như nhau. Tu sĩ là những người có đặc sủng theo sát Chúa cầu nguyện, hoặc loan báo Nước Trời, hay làm vịệc thiện giữa người trần hay sống giữa người đời hầu thực hiện thánh ý Cha (GL.577).  Tuy bậc tu sĩ nam hay nữ, chiêm niệm hay hoạt động tông đồ, không thuộc về cơ chế Giáo phẩm trong Giáo Hội [1], nhưng thuộc về đời sống thánh thiện của Giáo Hội vì đề cao những lời khuyên đặc biệt của Phúc Âm.
Trong Giáo Hội có những dòng tu thuộc quyền Giáo Hoàng, có những dòng tu thuộc Giáo phận. Theo truyền thống, một số dòng tu thuộc quyền Giáo Hoàng được hưởng một số đặc miễn, nhưng từ Công Đồng Vatican II và Giáo Luật 1983, các quyền miễn đó chỉ áp dụng trong việc quản trị nội bộ, còn các sứ vụ tông đồ trong lãnh vực phụng tự, rao giảng lời Chúa, giáo dục tôn giáo, công tác mục vụ, các tu sĩ phải hoạt động dưới quyền Giám Mục Giáo phận [2]. Trong các sứ vụ đó, dĩ nhiên cần phải có sự hiệp thông, nhất trí giữa GMGP và Bề trên các dòng, dù là dòng thuôc Giáo Hoàng[3]. Các dòng tu thuộc quyền Giáo phận được đặt trong sự quan tâm đặc biệt của của Giám Mục Giáo phận: ngài phải lưu ý bảo toàn và tôn trọng hiến chương, linh đạo và sự tự trị chính đáng của các dòng tu này (GL.586; 594).
Theo lời ĐGH Gioan-Phaolô II, “một Giáo phận vắng bóng các tu sĩ tận hiến sẽ thiếu nhiều ơn thiêng liêng, thiếu những cơ sở dành riêng cho việc tìm kiếm Chúa, cơ sở hoạt động tông đồ cũng như những phương pháp mục vụ đặc thù của mỗi dòng tu; hơn thế Giáo phận sẽ suy yếu vì thiếu tinh thần truyền giáo mà các dòng tu sẵn có[4]. Trong lịch sử Giáo Hội, từ sơ khai  cho đến nay, thời Trung Cổ cũng như hiện đại, các tu sĩ là những yếu tố quan trọng trong công tác loan báo Tin Mừng. Vì thế, trong các miền truyền giáo, Giáo Hội rất cần sự đóng góp vô cùng quý giá của tu sĩ[5] .
Trong hầu hết các Giáo phận VN, đều có ít nhất một dòng nữ [6]. Có Giáo phận có hàng mấy chục dòng cả nam lẫn nữ [7]. Sự khác biệt này có phải vì đất lành chim đậu ? hay vì những lý do lịch sử ?
Hầu hết các dòng nam hoạt động ở miền Nam[8] nhiều hơn ở miền Bắc.
D.1- Mối liện hệ pháp lý giữa Giám mục Giáo Phận (GMGP) và các dòng tu.
Công Đồng Vaticanô II đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu và quy định về dòng tu.
Ngày 28 tháng 20 năm 1965, Công Đồng công bố Sắc lệnh Perfectae Caritatis về “canh tân dòng tu”. Công Đồng đã tránh dùng danh từ thường được áp dụng truớc kia, tức là “bậc hoàn thiện”, nhưng đề cao tinh thần “Bác ái toàn thiện” mà các tu sĩ đang thực hiện trong Giáo Hội bằng đời sống tận hiến với ba lời khấn, với sự dâng hiến đời mình để theo sát Chúa và phục vụ Nhiệm thể của Chúa, cộng tác với các mục tử. Canh tân tức đổi  mới gồm những phương diện  sau đây:
a/ Theo chân Chúa Ki-tô như Phúc Âm dậy;
b/ Trung thành thực hiện gia sản thiêng liêng của hội dòng trong linh đạo của Đấng sáng lập;
c/ Thông hiệp với đời sống của Giáo Hội trong mọi sáng kiến và chương trình;
d/ Thích ứng đời sống của thành viên với những đặc thù của xã hội thời nay, biết nhận định một cách khôn ngoan trong ánh sáng đức tin những biến chuyển của thời cuộc và những điểm nổi bật của đời tông đồ;
đ/ Mọi phát triển bên ngoài phải phù hợp với đời tu, là đời sống hiệp nhất với Chúa Ki-tô trong viêc thực thi các lời khuyên Phúc Âm.
Nói chung Canh tân là trở về linh đạo của Đấng sáng lập, đồng thời thích ứng với sự tiến triển của thời đại. [9].
Công Đồng Vatican II đề cao vai trò của tu sĩ  trong đời sống chiêm niệm và mục vụ [10]. Vì  GMGP là vị có trách nhiệm chính trong Giáo phận, nên Công Đồng yêu cầu các Giám mục phải coi các tu sĩ là những cộng tác viên quan trọng trong công tác tông đồ, xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô. Công Đồng nhấn mạnh đến sự hiệp nhất giữa Giám Mục và tu sĩ, về sự hòa hiệp và liên kết chặt chẽ giữa các thành phần dân Chúa, giữa Giám Mục, giáo sĩ với tu sĩ, cũng như giữa các dòng tu khác nhau  cùng hoạt động trong Giáo phận [11]
Quyền Giám Mục đối với dòng tu.
Một số giáo dân, tu sĩ và đôi khi giáo sĩ vẫn chưa tường những điều khoản chi ly của Giáo Luật 1983 về quyền GMGP với dòng tu, nhất là các dòng thuộc Giáo phận. Nên chúng tôi xin trình bày một số vấn đề:
D.1.a – Trước hết, theo Giáo Luật 1983, Giám Mục không là Bề trên Dòng thuộc quyền Giáo Phận ?
Trong tiếng Việt, danh hiệu Bề trên quá hàm hồ.  Người ta dùng danh từ Bề trên để chỉ nhiều đấng bậc:
a/ trước hết, Chúa: thí dụ : “nhờ ơn Bề trên, tôi vẫn mạnh, làm ăn khá giả … ”,
b/ bất cứ ai có quyền: thí dụ linh mục Tổng đại diện (vicarius generalis) có nơi (như ở miền Nam) cũng có danh hiệu Cha Bề trên; cha Giám đốc chủng viện cũng là cha Bề trên , vv…
c/ Trong mốt số dòng tu, cha Linh giám cũng gọi là Cha Bề trên. Cha J.Beyer S.J. cho rằng, theo tinh thần Giáo Luật hiện hành, cách xưng hô này rất lạm dụng và phải xóa bỏ [12]
Vì thế, superior ecclesiasticus (Bề trên dòng tu theo luật) phải là người được Giáo Luật chỉ định. Mà Giáo Luật không chỉ định Giám mục làm  Bề trên.
D.1.b- Nhưng tại sao người ta vẫn nghĩ Giám mục Giáo Phận là Bề Trên các Dòng thuộc Giáo Phận ?
-  Thưa: Cái quan niệm sai lầm đó nếu tồn tại ở một vài nơi, vì người ta chưa cập nhật tinh thần Vatican II, và Giáo Luật 1983. Trong Giáo Luật cũ 1917, điều 492§2, khi nói về Dòng Tu thuộc quyền Giáo Phận, (mặc dầu Dòng tu đó phát triển trong nhiều Giáo phận),  Dòng tu này phải hoàn toàn tùng phục thẩm quyền Bản quyền (Ordinariorum jurisdictioni ad normam juris plane subjecta), tuy nhiên, cả trong Giáo Luật 1917, sự phục tùng đó vẫn không tùy tiện, nghĩa là phải theo đúng  luật (ad norman juris), nghĩa là dòng tu phải tùng phục  Giám Mục trong những trường hợp Luật chỉ định. Giáo Luật 1983 bỏ hẳn điều này (có lẽ để tránh nhiều lạm dụng quyền bính trong quá khứ), và thay thế bằng điều 594 : “Hội dòng thuộc quyền Giáo phận … được đặt dưới sự quan tâm  đặc biệt của Giám Mục Giáo phận”
(permanet sub speciali cura Episcopi dioecesani). Thế nào là quan tâm đặc biệt ? “Quan tâm đặc biệt” đòi Ngài phải chú ý theo đường hướng Giáo Luật, vì thế đôi khi phải dùng quyền mà Giáo Luật cho phép, không phải vì ngài là Bề trên, nhưng vì ngài làm Giám mục có quyền “giám sát”.
Theo tinh thần Giáo Luật mới, dù Giám mục là người sáng lập dòng đi nữa, Giám mục Giáo phận (GMGP) không được phép giữ chức Bề Trên Tổng Quyền, hay Bề trên nhà đi nữa . Nếu có trường này, thì đó là lạm dụng đáng tiếc, và phải tố cáo với cấp trên có thẩm quyền. (qui abusus auctoritati competenti est denuntiandus, theo một chuyên gia). Khi Dòng được thiết lập, ngài phải chọn một Bề trên cho Hội dòng, và Bề trên đó phải là thành viên của hội dòng. Điều này phải được tuân giữ, cả trong các miền truyền giáo[13] !
D.1.c- Như thế, Dòng thuộc quyền Giáo phận phải kể như là một pháp nhân công thuộc thẩm quyền Giám mục?
- Thưa : Dòng tu, theo Giáo Luật, có những quyền lợi của một pháp nhân công (persona juridica publica) giống như một Hiệp Hội giáo dân mà Giáo Luật nhắc tới (Xem điều 116, 117 và những điều 310-329 về các Hiệp hội giáo dân). Nhưng Giáo Luật dành cho Dòng tu những quy định đặc biệt: thứ nhất, “vì là tổ chức phục vụ Chúa và toàn thể Giáo Hội, nên Dòng tu – dù là dòng thuộc quyền Giáo phận -  tùng phục một cách đặc biệt quyền tối cao của Giáo Hội” (xem GL.590 1); thứ hai “mỗi tu sĩ , phải vâng phục Giáo Hoàng như Bề trên tối cao của mình, theo những điều buộc của lời khấn vâng lời” (Summo Pontrifici, tamquam supremo eorum Superiori, etiam ratione sacri vinculi obedientiae parere tenentur, GL. điều 590 2). Tuy nhiên Giáo Luật dành nhiều khoản về mối liên hệ giữa Giám mục và Dòng tu, như sẽ bàn sau.
D.1.d-  Nhưng theo Giáo Luật. điều 579, Giám mục Giáo phận, trong Giáo phận mình có quyền ban sắc lệnh thiết lập Hội dòng, sau khi đã tham khảo ý kiến của Tòa Thánh. Vị thiết lập lại không có quyền làm Bề trên hay sao?
- Thưa: người “thiết lập” không có nghĩa là người “sáng lập” theo Giáo Luật. Muốn cho dòng tu có giá trị pháp lý, nghĩa là sống “theo hiến pháp và pháp luật”, người sáng lập phải “đăng ký” nơi cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp này là Giám mục Giáo phận (GMGP). Giám Mục dùng thẩm quyền của mình ra sắc lệnh tuyên bố “thiết lập” Hội dòng như một “tổ chức đời sống tận hiến” theo Giáo Luật. Nhưng vì Giáo Hội công giáo là một tổ chức có tôn ti trật tự, nên GMGP phải hỏi ý kiến của cấp trên tức Tòa Thánh.  Tòa Thánh là cơ quan tối cao để nhận định tính khả thi và lợi ích của một dòng mới, để tránh nảy sinh một dòng tu vô ích hay thiếu sức sống cần thiết [14]. Nên nhớ, chỉ có GMGP có quyền này. Giám Mục phó, Giám Mục trợ tá, Cha Chính địa phận không có quyền này,
Vì là mục tử, rao truyền giáo lý, thừa hành phụng tự và quản trị, Giám mục là người có nhiệm vụ thánh hóa, dậy dỗ và điều hành Giáo phận (GL.375  1,2) và như vậy Giám mục Giáo phận  có nhiều quyền trên các linh mục, giáo dân và tu sĩ nhưng không là Bề trên theo Hiến chương các dòng tu.
D.1.e Vậy Giám mục Giáo phận có quyền gì trên Dòng tu thuộc quyền Giáo phận ?
-  Thưa: Giám mục Giáo phận, (cũng như các Bản quyền khác), phải tôn trọng và bảo đảm sự tự trị của Hội dòngOrdinariorun est hanc autonomiam servare ac tueri). Đó là quyền đầu tiên của Giám mục Giáo phận. Quyền này đồng thời là một nghĩa vụ theo Giáo Luật, nói lên bổn phận của Giám Mục: là Mục tử, ngài phải quan tâm đặc biệt đến những phần tử ưu tú của Giáo Hội tức các tu sĩ. Mặt khác, theo Công Đồng Vatican II, với sắc lệnh Perfectae Caritatis về Canh tân dòng tu, Giáo Hội không muốn dòng tu nấp bóng các nhà cầm quyền, nhưng biết sống tự lập hơn để thực thi lý tưởng, tinh thần và linh đạo đăc thù của mình. (GL.586§2:
Khác với các cơ cấu khác trong Giáo Hội, dòng tu có gia tài thiêng liêng của mình. Gia tài này gồm lý tưởng, đặc sủng cao siêu của các vị sáng lập, mục đích, tinh thần và những cá tính đặc thù như truyền thống của dòng (GL.578)[15]. Gia tài này, cũng như những quy luật nội bộ của mình, Dòng tu phải bảo quản cẩn thận (GL.586§1).
D.1.f-  Hỏi : Quyền tự trị nội bộ là gì ? có liên quan đến Hiến chương và Nội quy của Hội dòng ?
-  Thưa:  Có rất nhiều liên quan, vì nó là nòng cốt của quyền tự trị nội bộ. Tuy nhiên, quyền tự trị này không hoàn toàn tuyệt đối. Nó bị hạn chế bởi quyền bên ngoài tức là quyền của Tòa Thánh và quyền Giám mục Giáo phận. Nhưng, quyền bên ngoài này cũng bị hạn chế bởi những đặc quyền chính đáng của quyền tự trị nội bộ. Vì thế, hai quyền này song song với nhau, hòa hợp với nhau tạo nên vẻ đẹp kỳ diệu của đời tận hiến. Giáo Luật nhắc đi nhắc lại nguyên tắc tự trị được chính Luật công nhận và bảo vệ (GL.586: Giáo Luật công nhận mỗi dòng tu được quyền có đời sống tự trị chính đáng, nhất là quyền hành chính và kỷ luật nội bộ)
Theo Giáo Luật 587, muốn bảo vệ gia tài của mình, mỗi Hội dòng phải có một Hiến chương trong đó phải ghi; a) mục đích, tinh thần, những cá tính đặc thù như truyền thống của dòng; b) cơ cấu quản trị; c) kỷ luật nội bộ, điều kiện chấp nhận ứng viên và quy luật đào tạo thành viên (GL.587§ 1). Hiến chương này do chính thành viên Hội dòng soạn ra và, đối với Dòng thuộc quyền Giáo phận, phải được Giám mục Giáo phận châu phê sau khi hỏi ý kiến của Roma. Một khi Hiến chương được chính thức công nhận, khi muốn thay đổi Hiến chương,  Hội dòng phải cò sự đồng ý của Ngài (GL.587§2), nhưng chính ngài không có quyền bắt buộc hội dòng phải thay đổi Hiến chương  của mình, Hiến chương cũng quy định một cách hài hòa những yếu tố pháp lý với các yêu tố thiêng liêng để giúp thành viên sống đời tận hiến (GL. 587§3).
Hội dòng  cũng có các quy luật trong Nội quy do các nhà chức trách của HD. Những luật này có thể đổi thay, thêm bớt,  bổ xung tùy theo nhu cầu thời đại và địa  phương ( GL 587§4).
Trước tiên, các nhà chức trách của HD phải đối chiếu các quy luật của Nội quy với các điều khoản của Giáo Luật. Điêu chi trái ngược, phải hủy bỏ. Sau khi công bố Giáo luật 1983, ngày 2 tháng 2 năm 1984,  Thánh Bộ dòng tu và các hội tận hiến  đã ra sắc lệnh Juris  canonici Codicae [16], yêu  cầu các dòng tu phải đối chiếu luật dòng với luật chung trong Giáo Luật (tức Giáo luật 1983). Đồng thời, trong sắc lệnh Praescriptis canonum cùng ngày [17], Thánh bộ chỉ dẫn cách  thích ứng vơi Luật mới: a)  sau khi rà xoát các quy luật trong dòng, phải vô hiệu hóa  những luật cũ – ban hành theo luật 1917- trái ngược với luật mới, chiếu theo khoản 61 của GL mới ; b)  áp dụng tinh thần quảng bá pháp lý của GL 1983, trong những lãnh vực mà chính GL có chủ đích chung,  không chỉ định rõ rệt, vì GL muốn mỗi HD quy định và bổ xung những điểm pháp lý hợp với chính Hiến pháp và nội quy của mình.
Vì thế, các Hội dòng có bổn phận thích nghi Hiến chương và Nội quy với Giáo Luật, theo tinh thần Công đông vatican II. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tông thư Sacrae disciplinae leges, đã nhấn mạnh đến giá trị thiêng liêng của các Văn kiện Công đồng và giá trị giáo hội học do Công đồng đề ra. Chính những khoản 5 và 6 của Giáo Luật ấn định hủy bỏ các luật lệ và phong tục chung hay riêng trái ngược với Giáo luật mới.
D.1.g Nói chung, cụ thể GMGP có những nhiệm vụ và quyền bính gì đối với các Dòng tu thuộc Giáo phận?
-   Thưa: Theo thánh chức của mình, GMGP có nhiệm vụ :
a/ trước tiên, GMGP có nhiệm vụ thánh hóa tu sĩ, cũng như các cơ chế “thánh hóa” khác đối với giáo sĩ cũng như giáo dân (GL.207 §1&2) mặc dầu dòng tu không thuộc về cơ cấu giáo phẩm của Giáo Hội (licet ad hierarchiam Ecclesiae non spectet, GL.207§2).
b/  GMGP có nhiệm vụ bảo quản các cơ chế thực hiện các lời khuyên Phúc Âm như là hồng ân Chúa ban cho Giáo Hội (GL. 575);
c/ GMGP có nhiệm vụ thăng tiến và bảo vệ gia tài  các dòng tu (GL.578);
d/ GMGP  có nhiệm vụ  tôn trọng và bảo vệ sự tự trị của dòng tu  (GL. 586§ 2).
đ/ GMGP có nhiệm vụ kinh lý dòng tu (GL.628 §2);
e/ GMGP có nhiệm vụ kiểm tra để các tài sản của dòng tu (vì là pháp nhân công trong Giáo Phận) được quản lý một cách cẩn thận (GL.1276) mặc dầu tài sản đó không trực tiếp thuộc về ngài;
g/ Trong lãnh vực hoạt động tông đồ, theo Công đồng Vaticanô II, Dòng tu có nhiệm vụ hoạt động hết sức và hết lòng để xây dựng và phát triển nhiệm thể Chúa Kitô vì lợi ích của các giáo hội địa phương, và như vậy phải cộng tác với các GMGP [18]. Về phần mình, GMGP có rất nhiều nhiệm vụ:
1/ nhắc nhớ các tu sĩ nghĩa vụ hoạt động tông đồ ngoài đời  (GL. 679);
2/ tổ chức sự cộng tác giữa các dòng tu với nhau và với giáo sĩ triều (GL. 680);
3/ ký giao kèo hợp tác với các Bề trên dòng tu trong các công tác mà GMGP ủy thác cho dòng tu, về công tác, về nhân sự cũng như về việc đóng góp  tài chính  (GL. 681-682);
4/ kiểm tra các trường học, các cơ sở xã hội, bác ái của dòng, và nếu có chi lạm dụng, ngài phải cho Bề trên dòng biết, và nếu vị này không giải quyết thì ngài có quyền giải quyết (GL.683).
Theo thánh chức và thẩm quyền,
a/ GMGP có quyền thiết lập  dòng tu thuộc giáo phận (GL. 579);
b/ GMGP có quyền chấp nhận hiến chương, chấp thuận sự thay đổi hiến chương, hay trong trường hợp đặc biệt miễn chuẩn thi hành hiến chương (GL. 595);
c/ GMGP có quyền cho phép thiết lập một tu viện, giấp phép có chữ ký của GM (GL.609§ 1), cho phép các thành viên sống trong tu viện đó sống theo quy luật của mình  (GL.611, 733);
d/ GMGP có quyền đồng ý thay đổi hoạt động của một tu viện đã có phép hiện hữu  (GL.612);
đ/ GMGP có quyền cho phép Bề trên Hội dòng hủy bỏ một tu viện hiện hữu (GL.616 §1);
e/ GMGP có quyền chủ tọa cuộc bầu cử  Bề trên tổng quyền của Hội dòng (GL.625§ 2);
g/ GMGP có quyền và bổn phận kinh lý dòng tu, các tu viện  trong giáo phận (GL.628§ 2); nhưng không có quyền kinh lý học viện dành riêng cho tu sĩ (GL.683§1);
h/ GMGP có quyền quản lý tất cả những hoạt động phụng vụ, và mục vụ tông đồ của tu sĩ trong giáo phận (GL.678-680); trong các hoạt động tông đồ công khai ngoài nhà dòng, tu sĩ cũng phải phục quyền Bề trên của mình, nên trong lãnh vực này GMGP và Bề Trên phải có sự hòa hợp;
i/ Khi có lý do rất quan trọng và khẩn cấp, GMGP có quyền cấm  một tu sĩ  cư ngụ trong Giáo phận, nhưng trong trường hợp này phải trình Tòa Thánh (GL.679);
k/ Trong trường hợp tu sĩ đã khấn trọn được ngoại vi 3 năm, Hội Dòng phải có sự chấp thuận của GMGP (GL.686);
l/  GMGP có quyền miễn chuẩn lời khấn cho tu sĩ còn trong thời kỳ tạm khấn, hay đã khấn trọn, nhưng qua những điều kiện Hiến Pháp, nội quy và ý kiến của Bề trên Dòng (GL.688§2; 691§ 2, 693);
m/ GMGP có quyền ký sắc lệnh trục xuất một tu sĩ mắc trọng tội mà không chịu hoán cải (GL.699§2 và 700),  theo lời đề nghị của giới chức của Hội dòng (sau khi Hội Dòng đã thi hành các điều kiện bắt buộc trong các khoản GL. 694-700);
n/ GMGP có quyền được báo cáo về tổng số tài sản của dòng tu thuộc Giáo phận, cũng như của tu viện trong địa giới của Giáo phận (GL.637), kiểm tra việc quản lý và dĩ nhiên ngài có quyền can thiệp trong những sang nhượng quan trọng có thể làm thương tổn tài sản của Hội Dòng (GL. 638).
D.1.h- Với nhiều quyền như trên, GMGP vẫn  không có quyền can thiệp vào nội bộ dòng tu hay sao ?
-  Thưa : Đúng vậy, GMGP không có quyền can thiệp trực tiếp vào nội bộ của dòng tu. Giáo Luật khoản 586 2 phải được coi như kim chỉ nam của ngài cũng như của dòng tu: “Bản quyền địa phương – GMGP, GM phó hay phụ tá, cha Chính – phải tôn trọng và bảo vệ sự tự trị nội bộ của hội dòng”.
D.1.i- Trong vấn đề chọn Bề trên dòng tu, GMGP có quyền gì ? Thưa:  Giáo luật cảnh giác mọi người về tính cách “pháp quyền” của Giáo Hội. Bất cứ ở hoàn cảnh và đẳng cấp nào, con người dễ quên tính cách pháp lý của xã hội mình đang sống. Con người dễ xao lãng việc tuân thủ pháp luật, hoặc bỏ quên, hoặc khinh thường. Vì thế, xảy ra cảnh “thượng bất chính, hạ tắc loạn” trong xã hội.
Giáo Hội là một xã hội có tôn ti, nhất là trong bối cảnh Dòng tu. Vì thế, không Hiến chương Dòng nào không có những khoản luật rất chi tiết về việc bầu cử, về tổng tu nghị, về thành viên có quyền bỏ phiếu bầu, về những điều kiện cá nhân người có quyền được bầu, về nhiệm kỳ, về trách nhiệm, về quyền hành … GL.623  nói về những điều chung chung về việc chọn hay bầu Bề trên,  nhưng để Hiến chương mỗi dòng quy định chi tiết . Hiến chương có thể quy định cuộc bầu cử phải có Giám mục hay đại diện của ngài chủ toạ. Theo Giáo Luật 1917, số 506§ 4. GMGP hay đại diện của mình chủ tọa cuộc bầu cử Bề trên tổng quyền các dòng nữ. Giáo luật hiện hành (GL.625§ 2) GMGP chủ tọa việc bầu Bề trên một đan viện tự trị (monasterium sui juris) hay Bề Trên tổng quyền Dòng thuộc Giáo phận.
Về vấn đề Bề trên tổng quyền, Giáo Luật cấm  mọi lạm dụng, mọi áp lực, mọi thiên vị phe đảng, nhưng phải chọn theo lương tâm vì Chúa và vì lợi ích của Hội dòng (GL. 626).
Nói chung, “theo các Hiến chương, tổng tu nghị có quyền tối cao trong Dòng… có bổn phận bảo vệ gia tài thiêng liêng của Hội Dòng (GL.578), có bổn phận  canh tân và thích ứng gia tài đó, giải quyết các vấn đề quan trọng và bầu Bề Trên tổng quyền” (GL. 631§ 1).
Một khi Bề trên mới được chính thức đắc cử, Hội Dòng chính thức báo cho GMGP để ngài xác nhận. “Nếu việc bầu cử được thực hiện theo đúng luật, ngài không có quyền từ chối  (GL.179§2) và phải xác nhận ngay bằng văn bản (GL.179§3). Sự xác nhận này không có tính cách quyết định, vì nếu bị từ chối, đương sự có quyền kháng cáo lên cấp trên khi thấy rằng sự từ chối đó không chính đáng (GL.1737§ 1). Theo Giáo luật, điều 51, trong trường hợp này, phải có văn bản, vì cả hai bên cần có chứng từ pháp lý.
Nghĩa là vấn đề chọn Bề Trên tổng quyền là vấn đề hoàn toàn nội bộ. GMGP chỉ can thiệp khi có lý do rõ rệt là tổng tu nghị đã vi phạm nghiêm trọng Hiến chương và Giáo Luật. Nếu GMGP không chấp nhận Bề Trên do tổng tu nghị bầu, Giáo Luật cho phép kháng cáo lên Tòa Thánh.
D.1.j-  GMGP có quyền can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào chính việc chọn lựa Bề trên? thí dụ chỉ định người sẽ làm Bề Trên tổng quyền, hay dùng quyền áp chế áp đặt một Bề trên hợp ý Ngài ?
Thưa, điều đó không thể có được: vì không GMGP nào dám đi ngược lại quy định của Giáo Luật, vi phạm Hiến chương và luân thường đạo lý. Và người được Ngài chỉ định làm Bề Trên sẽ chỉ là người tiến vị, bất hợp pháp.
D.1k-  GMGP có quyền trục xuất một nữ tu đã khấn, nhất là đã khấn trọn thuộc Dòng Giáo phận?
-  Thưa:  Trục xuất một tu sĩ, dù là nữ tu sĩ ra khỏi Dòng tu là một vấn đề rất quan trọng. Giáo Luật 1917  dành 26 khoản (646-672). Giáo Luật 1983 đơn giản hơn, chỉ dành 11 khoản (694-704). Trong vấn đề trục xuất, Giáo Luật mới; a) không phân biệt khấn đơn hay khấn trọn, dòng giáo sĩ hay dòng giáo dân, đàn ông hay đàn bà ; b) áp dụng cùng một hình thức xét xử  – khi có lý do chính đáng và tuân theo các thủ tục hình sự cố định – và một khi lên án, sẽ gây hậu quả như nhau; c) thủ tục hình sự không phân biệt đẳng cấp của tu sĩ, mà tùy theo lý do trục xuất.
Theo Giáo Luật hiện hành,
a) Phải trục xuất lập tức tu sĩ công khai bỏ đạo, hay kết hôn (GL. 694 );
b) Bắt buộc phải trục xuất tu sĩ phạm những tội sau: sát nhân, phá thai, công khai vi phạm giới răn thứ 6 hay giới răn thứ 10 (GL.695 §1, 1397, 1398, 1395).  Trong những trường hợp này, Bề Trên tổng quyền phải lập tòa án, điều tra, xét xử theo Giáo Luật và ra nghị định trục xuất. Bị cáo có quyền kháng cáo lên cấp trên (GL.700).
c) Trục xuất vì những lý do khác, công khai và đủ chứng cớ, thí dụ cuộc sống hoang đàng, cố tình không vâng lời bề trên thường xuyên trong những điều nặng, cách sống gây gương mù gương xấu  nặng, tuyên truyền những đạo lý ngược lại Giáo Hội, gia nhập những tổ chức vô luân vô thần….Trong những trường hợp này, Bề trên tổng quyền, sau khi đã hội ý với Ban tổng cố vấn, sẽ lập ban điều tra, khuyên nhủ đối tượng hoán cải, và nếu người này ương ngạnh không sửa, Bề trên với sự đồng ý của Ban Cố Vấn ít nhất là bốn người bỏ phiếu kín, sẽ lên bản án và ra lệnh trục xuất (GL.696-699). Trong các trường hợp này đương sự có quyền bảo vệ và kháng cáo.
Sắc lệnh trục xuất lúc đó phải ghi rõ tội phạm, về luật cũng như về thực trạng. Sắc lệnh này sẽ chuyển tới GMGP để được xác nhận (GL.700). Nếu không được xác nhận, thì sắc lênh sẽ không có giá trị.
Giáo Luật hiện hành tôn trọng quyền người bị cáo; người này có quyền tự bào chữa hay dùng luật sư bào chữa và kháng cáo nếu thấy mình bị lên án bất công.
Các khoản luật trên (GL.694-700) cho thấy GMGP không trực tiếp điều tra hay lên án trục xuất, nhưng chỉ xác nhận bản án của Bề trên tổng quyền. Vì thế, nếu GMGP tự ý trục xuất (“lột áo”) một tu sĩ mà không theo các thủ tục hành chính và hình sự ghi trong Giáo Luật, thì ngài đã lỗi nặng trước mặt Chúa và Giáo Hội.
D.1.l- Hỏi : GMGP có quyền gì trên các tài sản của Hội Dòng Giáo Phận ?
- Giáo Luật 634-640 quy định khá rõ về quyền sở hữu, bảo quản, quản trị, chuyển nhượng của Hội Dòng. Vì Hội Dòng một khi đã chính thức thành lập là một pháp nhân công (persona juridica publica), Hội Dòng được hưởng các quyền lợi về của cải vật chất theo Giáo Luật (1255-1255). Nhất là điều 1258, Giáo Luật áp dụng danh từ “Giáo Hội” cho mọi pháp nhân công (nomen Ecclesiae significatur non solum Ecclesia uniuversa  aut Sedes Apostolicae, sed etiam quaelibet persona juridica publica in Ecclesia… ).
Trước hết, mọi tài sản của các pháp nhân công  được đặt dưới sự bảo vệ của Giáo Hoàng (GL.257). Giáo Luật chú trọng đặc biệt đến tài sản của Giáo Phận, của giáo xứ và của các Dòng tu. Tài sản Giáo phận, GMGP phải trao cho Hội Đồng Quản Trị tài chính do chính ngài chủ tọa, trong đó ít nhất  phải có ba giáo dân thành thạo về kinh tài và nổi tiếng về đức hạnh. Trong Hội Đồng Quản Trị tài chính này, Giám Mục không được phép chọn cháu chắt tới bốn đời (GL 492). Giáo phận cũng có một quản lý tài ba, nhiệm kỳ 5 năm (494) .
Tài sản của giáo xứ  do linh mục quản xứ quản lý với sự cộng tác của một Hội đồng kinh tế của giáo xứ  (GL.532, 537, 1281-1280).
Tài sản của dòng tu  được đề cập đến trong 7 điều khoản (GL.634-640). Hội dòng phải quản trị theo quy tắc của Giáo Luật (GL.634-640; 1254-1310). Giáo Luật cũng quy định rõ rệt Bề trên tổng quyền không được phép quản lý tài sản của Hội dòng; Tu viện, nếu có thể cũng phải có môt quản lý không phải là Bề trên tu viện.
Trong Giáo Luật, không có điều khoản nào cho phép GMGP làm chủ tài sản của bất cứ Hội dòng nào,  tuy ngài có bổn phận phải kiểm tra để những tài sản đó khỏi bị  mất mát hay bị xâm phạm.


No comments:

Post a Comment