Nhìn AiCâp Mong ViệtNam

Thursday, December 2, 2010

Những nút thắt trong phát triển năng lực cạnh tranh

Báo cáo về năng lực cạnh tranh của Việt Nam, do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương phối hợp với Học viện Năng lực cạnh tranh châu Á nghiên cứu, thực hiện lần đầu tiên, được công bố vào ngày 30/11.
Lần đầu tiên, những điểm yếu kém của nền kinh tế Việt Nam được mổ xẻ một cách thẳng thắn bằng những nghiên cứu khoa học nghiêm túc và được giáo sư Michael Porter trình bày trước chính phủ và các doanh nghiệp, chuyên gia kinh tế Việt Nam.
Cuộc phỏng vấn của Khánh An và Vũ Hoàng thực hiện với TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương, cử tọa tham dự của buổi công bố báo cáo trên sẽ mở đầu cho loạt bài về “Nâng cao năng lực cạnh tranh”.
Trước tiên, TS. Lê Đăng Doanh cho biết về những lỗ hổng chính trong năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam:
Giáo sư Michael Porter đã đánh giá cao về thành tựu tăng trưởng của Việt Nam và giáo sư nói rằng những thành tựu tăng trưởng ấy của Việt Nam thì đến nay đã đến giới hạn của nó, bởi vì Việt Nam vẫn dựa chủ yếu vào xuất khẩu các khoáng sản thô, các sản phẩm có hàm lượng lao động cao nhưng chi phí nhân công thấp.
Giáo sư Michael Porter đã tỏ ra rất thẳng thắn chỉ ra rằng tình hình đó không thể kéo dài được mãi và đã nêu lên những mặt yếu chính của Việt Nam về năng lực cạnh tranh. Một là môi trường kinh tế vĩ mô đã trở nên kém ổn định. Vì vậy, khả năng thu hút đầu tư nước ngoài cũng như khả năng thu hút đầu tư của khu vực tư nhân nội địa cũng bị hạn chế. Thứ hai là những nút thắt cổ chai của các đầu vào cho sản xuất. Cụ thể là những hạn chế về kết cấu hạ tầng, điện, nguồn nhân lực. Đấy là những điểm đặc biệt mà giáo sư nêu lên.
Giáo sư cũng nêu lên là cần phải có những nỗ lực nghiêm túc từ phía chính phủ cũng như doanh nghiệp để xây dựng và nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong thời gian tới. Giáo sư cũng có kiến nghị về việc thành lập một Hội đồng cạnh tranh của Việt Nam, có các doanh nghiệp tư nhân tham gia. Giáo sư cũng đề xuất cũng như các nền kinh tế thị trường khác, Việt Nam cần phải lấy khu vực kinh tế tư nhân làm động lực chính để thúc đẩy phát triển và từ đó tạo nền tảng cho năng suất lao động cao hơn.

Kinh tế tư nhân

Khánh An: Tiến sĩ vừa nói là phải tập trung để phát triển doanh nghiệp tư nhân, Khánh An muốn hỏi là các doanh nghiệp tư nhân, theo như một số chuyên gia đánh giá, là dường như họ chưa thực sự am hiểu về khái niệm cạnh tranh, hay nói khác hơn là họ chưa áp dụng khái niệm này vào trong thực tế một cách hiệu quả. Không biết nhận xét này có đúng không, thưa tiến sĩ?
TS. Lê Đăng Doanh: Khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam đã có bước phát triển nhảy vọt, hiện nay đã đạt được mức 6,2 doanh nghiệp/1000 dân là mức trung bình của khu vực Đông Nam Á. Trong số những doanh nghiệp đó, có một số doanh nghiệp đã hết sức chú ý đến việc hoàn thiện năng lực cạnh tranh của mình, đó là những doanh nghiệp xuất khẩu và phải cạnh tranh rất mạnh mẽ đối với các sản phẩm từ các nước ASEAN và từ Trung Quốc tràn vào. Còn một số các doanh nghiệp khác thì nhỏ hoặc quá nhỏ và chỉ chiếm lĩnh thị trường địa phương.


Vì vậy, họ thiếu năng lực cũng như thiếu hiểu biết có tính chất chuyên môn để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Tôi nghĩ rằng nếu thực thi những kiến nghị của giáo sư Michael Porter, Việt Nam có thể lập Hội đồng Năng lực cạnh tranh ở cấp cao và sẽ có những cải tiến nhất định để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam lớn lên một cách mau chóng và sẽ đảm đương được nhiệm vụ của mình
Vũ Hoàng: Có một điều mà giáo sư Porter nói, là Việt Nam phải đặt lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu và tăng trưởng sẽ là mục tiêu thứ hai. Như vậy theo đánh giá của tiến sĩ, hiện nay các doanh nghiệp của Việt Nam có nhận thức rõ điều này không?
TS. Lê Đăng Doanh: Các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam thì đương nhiên hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, nhưng do điều kiện kinh tế vĩ mô của Việt Nam hiện nay có rất nhiều khó khăn cho nên một số doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam có một tỷ suất lợi nhuận rất thấp. Còn các doanh nghiệp nhà nước thì một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực như ngân hàng hay điện thoại di động thì họ phải cạnh tranh và họ có sự cải thiện tương đối khá. Nhưng các doanh nghiệp độc quyền thì đang có những biểu hiện trì trệ, dựa vào vị thế độc quyền của mình cho nên ít có cải tiến chất lượng hoạt động của mình.

Còn nhiều hạn chế
Khánh An: Thưa tiến sĩ, ông đánh giá như thế nào về vấn đề cũng thường được nêu ra là vấn đề thiếu thông tin vì nó cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp? Không biết điều này trên thực tế thì thế nào và theo đánh giá của ông, hiện nay các doanh nghiệp có gặp khó khăn do trở ngại này không?

TS. Lê Đăng Doanh: Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã có tiếp cận internet và đã có các thông tin từ các cơ quan bộ, ngành của nhà nước. Song rất nhiều thông tin chưa cụ thể và thiếu giá trị thực tế đối với doanh nghiệp, tức là thông tin rất chung chung, công bố nghị định, văn bản, nhưng những điều mà doanh nghiệp tư nhân thực sự quan tâm thì họ lại ít có được. Vì vậy, họ mất rất nhiều thời giờ để tiếp xúc cá nhân, xây dựng các mối quan hệ. Đó là một đặc điểm của môi trường kinh doanh Việt Nam hiện nay.
Vũ Hoàng: Tiến sĩ cũng nhắc đến những “nút thắt cổ chai” đã làm giảm năng lực cạnh tranh của Việt Nam, thực ra thì vấn đề này đã được bàn thảo khá nhiều trong thời gian qua nhưng chưa có hiệu quả trong việc đưa ra giải pháp. Như vậy theo ông, đâu là nguyên nhân và làm thế nào để đẩy nhanh tiến độ “tháo nút” này?
TS. Lê Đăng Doanh: Một là hiện nay kết cấu hạ tầng của Việt Nam không theo kịp sự phát triển của kinh tế thì điều đó đã thấy rất rõ, đường sá thì kẹt xe, bến cảng thì thời gian bốc xếp rất lâu và đặc biệt là tình hình thiếu điện rất nghiêm trọng.
Vì vậy để thực hiện việc cải thiện thì cần rất nhiều vốn và vốn đó thì nhà nước không thể tự mình bỏ ra được mà phải huy động của tư nhân và vốn của nước ngoài. Vì vậy cho nên chính phủ hiện nay đang thực hiện dự án do Ngân hàng Thế giới đề xuất, tức là thực hiện PPP (Hợp tác công – tư) trong việc này và đã có ban hành một số văn bản ban đầu để thực hiện công việc đó.
Thêm vào đó, trình độ chuyên môn của các doanh nghiệp trong nước vẫn còn hạn chế trong việc thiết kế và thi công một cách có chất lượng các công trình kết cấu hạ tầng chất lượng cao. Vì vậy có xảy ra hiện tượng vừa mới khánh thành một đường cao tốc hoặc một đại lộ thì sau đó lại thấy bị hư hỏng. Tình hình đó cũng làm giảm hiệu quả của việc đầu tư của nhà nước.
Những việc này sắp tới đây không những cần vốn mà cần phải có những cải tiến rất rõ rệt trong chế độ trách nhiệm giải trình, chế độ trách nhiệm cá nhân cho chất lượng của các công trình và nâng cao hiệu lực của hệ thống giám sát các công trình đầu tư ở Việt Nam. 
Khánh An: Xin cám ơn TS. Lê Đăng Doanh rất nhiều.

No comments:

Post a Comment