Nhìn AiCâp Mong ViệtNam

Monday, December 13, 2010

Suy nghĩ về lá thư của Đức Cha Hoàng Đức Oanh gửi Thày Cô giáo giáo phận Kontum


Đức Cha muốn nói gì:
* với các nhà Giáo Dục trong và ngoài Giáo Hội Công Giáo?
* với chế độ cộng sản Việt Nam?
* với Đại Hội Dân Chúa vừa qua, đặc biệt những Đấng Bậc Làm Thày (Giáo) trong Hội Thánh Công Giáo Việt Nam?

Dù chỉ là một lá thư gửi Thày Cô Giáo trong một giáo phận nhỏ trên vùng Cao Nguyên heo hút nhân Ngày Nhà Giáo 2010, Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh đã nhân danh tập thể Công Giáo Dân –một cách nào đó, toàn thể các Giám Mục trong HĐGMVN- để thẳng thắn đụng chạm tới một vấn đề lớn. Đó là tình trạng tuột dốc thể thảm của hệ thống giáo dục quốc gia dưới sự nắm giữ độc quyền của đảng và nhà nước CSVN trong suốt mấy thập niên qua.
Lá thư được gửi ra ngày 20-11-2010, một ngày trước khi bế mạc biến cố được coi là trọng đại trong GHCG mệnh danh Đại Hội Dân Chúa. Và điều này khiến người ta có lý do chính đáng để băn khoăn, nuối tiếc nêu lên câu hỏi: Phải chi bốn ngày gặp gỡ giữa các đại biểu gồm hơn 30 GM, ngót 300 linh mục, tu sĩ, giáo dân (được gạn lọc cẩn thận sao cho ‘tốt Đạo, đẹp Đời!”) trong Đại Hội Dân Chúa đừng quá chú trọng tới những phô trương bề ngoài, gạt bỏ những tham luận sáo rỗng, nặng phần trình diễn, để chỉ tập trung vào một đề tài giáo dục lồng trong nỗi trăn trở của Đức Cha Oanh thì quả là điều may cho tiền đồ Giáo Hội và Quê Hương Việt Nam.

Lá thư của Đức Cha Oanh nói gì?
Sau đoạn mở đầu nhấn mạnh tới tính chất quan trọng và cao quý của ngành giáo dục, trong đó, từ ngàn xưa, các Thày Cô giáo đã được xếp vào hàng thứ hai chỉ sau Vua và trên cả các bậc phụ mẫu (Quân – Sư – Phụ), Đức Cha Hoàng Đức Oanh nhấn mạnh:
(Các Thày Cô giáo) “không nhiều tiền của, nhưng giàu tình thương. Không quyền thế, nhưng ảnh hưởng sâu đậm. Nếu con người nói chung không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13b), thì trong ngành giáo dục, “tiền của và nghề giáo cũng khó đi đôi với nhau”. Trường lớp mà trở thành “xí nghiệp kinh doanh” thì trường lớp trở thành lò đúc người! Tiền của vào trường lớp, đạo đức sẽ đi chơi nơi khác. Nghề giáo đòi hỏi nơi các thầy cô một con tim biết yêu thương…”
Chỉ với một nhận định ngắn ngủi nhưng hiển nhiên tác giả lá thư muốn cùng một lúc thông đạt suy tư của ngài tới nhiều đối tượng khác nhau. (a) Trước hết là các Thày Cô giáo trong giáo phận Kontum, rộng hơn là những người đang trực tiếp sinh hoạt trong ngành giáo dục. (b) Thứ đến là nhà cầm quyền CSVN, những người trực tiếp chịu trách nhiệm về tình trạng băng hoại thê thảm của nền giáo dục Việt Nam ngày nay. (c) Sau chót là hàng Giám Mục trong GHCG, những bậc Thày Dạy Chân Lý, những người đầu tiên phải nêu gương trong tinh thần phục vụ, tôn trọng sự thật, bảo vệ những giá trị văn minh, văn hóa và chấp nhận một đời sống khó nghèo.
Bước vào nội dung chính của lá thư, sau khi nêu lên những câu hỏi: “Hiện tình nền giáo dục Việt Nam ra sao? Vui hay buồn? Đi lên hay tụt dốc? Sáng sủa hay bi quan?”, không rào đón, úp mở, người mục tử đang chăn giắt đoàn chiên nghèo khó, thấp cổ bé miệng của ngài ở vùng Cao Nguyên đã viết huỵch toẹt ra những sự thật đau lòng sau đây:
“Nhà Nước Việt Nam đã và đang độc quyền giáo dục trên toàn quốc từ sau 1975. Từ đường lối, chương trình, giáo khoa cho đến đào tạo và quản lý đều nằm gọn trong tay nhà nước theo xã hội chủ nghĩa vô thần duy vật. Mọi tôn giáo, mọi tổ chức tư nhân bị gạt ra ngoài. Tất cả các cơ sở đào tạo và giáo dục của các giáo hội cũng như của các tổ chức tư nhân đều bị quốc hữu hóa!”
Đấy là những thực tế đau thương đã dẫn tới tình trạng phá sản trong nền giáo dục Việt Nam từ hơn ba thập niên qua, nhưng ít ai dám công khai nói tới, kể cả những thành phần chóp bu trong GHCG, một tôn giáo mà qua không gian cũng như thời gian từng được nhìn nhận là có thẩm quyền nhất trong lãnh vực đào luyện nhân cách con người. Vượt lên trên những sợ hãi, e dè thường tình và với tấm lòng yêu chuộng công lý của người môn đệ Chúa Kitô, Đức Cha Oanh đã thẳng thắn nói lên những suy tư chân thật của ngài. Sau tháng tư năm 75, vừa bằng biện pháp ăn cướp trắng, vừa bằng những thủ đoạn phủ dụ, đe noi, ép buộc các nhà lãnh đạo tôn giáo dâng hiến các cơ sở giáo dục, đảng và nhà nước CSVN đã lần hồi biến giáo dục, trường ốc thành một phương tiện nhằm phục vụ cho những lợi ích cá nhân và củng cố chế độ độc tài, chuyên chính. Trong điều kiện tồi tệ ấy, học đường không còn là nơi đào luyện những thế hệ trẻ tài năng, đạo đức để trở thành những công dân tương lại hầu góp phần xây dựng đất nước. Trái lại nó đã biến thành một thứ mà Đức Giám Mục Kontum mệnh danh là “xí nghiệp kinh doanh” để người ta lợi dụng mua danh, bác tước một cách trắng trơn.
Hàng ngày, nhan nhản trên các blogs, các trang báo điện tử, kể cả những tờ báo viết phát hành trong nước, khách bàng quan đọc được những tin tức không vui trong ngành giáo dục. Những chuyện thày trò lăng mạ, ẩu đả, gây thương tích cho nhau; hiệu trưởng trở thành ma cô, dụ dỗ nữ sinh vị thành niên trong trường dâng hiến trinh tiết cho các viên chức cao cấp nhà nước; thày cô giáo tự nguyện đóng vai trò môi giới làm tiền phụ huynh học sinh, sinh viên qua dịch vụ học thêm hoặc trong các kỳ thi lên lớp, tốt nghiệp hàng năm đã trở thành chuyện nhân gian ai cũng biết. Trong điều kiện như thế công thêm với không khí ô nhiễm chứa đầy những mưu toan, trí trá trong xã hội, đã biến cả một thế hệ trẻ thành những kẻ bất lương, ăn gian, nói dối. Chính từ đấy đã nảy sinh những vụ bạo hành, những vụ thảm sát kinh hoàng trong các gia đình mà con cái là thành phần chủ động.
Trong bài viết: “Tâm sự một cựu nhà giáo -con giết cha mẹ trách nhiệm về ai?” đăng trên mạng lưới Nữ Vương Công Lý ngày 02-12-2010 vừa qua, tác giả cho hay:
“Vào đúng dịp lễ Hiến Chương Nhà Giáo 20 tháng 11 năm 2010, trên báo mạng, ngoài những tin về bạo lực, giết chóc thường có, còn có 2 tin gây chấn động: con trai dùng cây tọng mủ cao su vào miệng mẹ với lời mắng chửi thô bạo bất nhân, và con gái đâm chết người cha già vì ông thẳng thắn răn dạy đứa con mất nết!
… Cô gái giết cha ngụ ở Mỹ Tho. Hôm đó cha cô thấy con gái tắm xong tơn tơn ra khỏi nhà tắm mà không chịu mặc quần, đi tung tăng lên nhà! Người cha già quá kinh ngạc kêu con mặc quần vào, nhưng cô không nghe còn cự lại cha với lời vô lễ. Quá bức xúc, ông đã tát con gái. Lập tức cô này xuống bếp lấy con dao nhọn lên đâm cha hai nhát trúng tim, và ông chết ngay tại chỗ!
Còn người con trai vừa nêu trên thì ở Bình Dương, được mẹ chia gia tài cho hai anh em, nhưng người anh này bài bạc tiêu tan hết tài sản, về xin thêm tiền thì mẹ không cho. Anh ta đánh chửi mẹ, và lấy mủ cao su nhét vào họng mẹ rồi dùng cây tọng vào, miệng buông ra những lời đốn mạt: “Tao đánh để cho mày chừa!”. Còn cậu nhỏ mới 17 tuổi, tên Võ Văn Vũ ở Bến Tre, xin mẹ tiền không được bèn mua a-xit về tạt lên người mẹ, bị đau đớn bà mẹ hét lên thì con lấy dẻ nhét vào miệng và bóp cổ mẹ cho đến chết! Hỡi ôi! Có đời nào như thế này không? Nghĩ đến mà tôi toát mồ hôi và rùng mình vì khiếp sợ! Tôi thật sự bị sốc!”
Lời chứng trên đây của người cựu giáo chức trong nước đã giúp minh họa một phần nào cái hệ quả khốc hại của tình trạng giáo dục dưới sự chỉ đạo của đảng và nhà nước cộng sản vô thần trên đất nước ta hôm nay. Đi tìm căn nguyên sâu xa dẫn tới những hiện tượng đau lòng kể trên, tác giả nói tới trách nhiệm của các tôn giáo với những lời lẽ sau đây:
“Tôn giáo nào cũng dạy con người làm lành lánh dữ. Đạo Thiên Chúa thì có phần tích cực hơn trong vai trò giáo dục con người, nhất là cho giới trẻ, về đức dục, về các đức tính ngay thẳng thật thà, công bằng, bác ái, cách cư xử tốt với mọi người. Nhưng dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa ngày nay, vấn đề tôn giáo không bình thường, vì chủ trương đường lối của nhà nước, không nhiều thì ít đã “tục hóa” con người, kể cả nhà tu hành, rồi việc giới hạn hay ngăn cấm các tôn giáo truyền giảng, hay tham gia vào công tác giáo dục, trong khi ngành GD của nhà nước thì còn rất yếu kém, bất cập, cả về nội dung lẫn hình thức… “
Dù là một cựu giáo chức trong lòng chế độ vô thần cộng sản, tác giả vẫn còn đủ sáng suốt để nhận ra vai trò “tích cực” của Đạo Chúa trong việc “giáo dục con người, nhất là cho giới trẻ, về đức dục, về các đức tính ngay thẳng, thật thà, công bằng, bác ái…” Vẫn theo người cựu giáo chức, tác giả bài viết, thì điều đáng phàn nàn là: dưới chế độ cộng sản, tôn giáo đã bị biến tính để mang một dạng thái “không bình thường”. Sự không bình thường ấy được hiểu ngầm là đã đánh mất bản ngã của một cơ cấu xã hội dân sự chuyên tâm phục vụ Chân-Thiện-Mỹ qua phương tiện giáo dục với những đức tính ngay thẳng, thật thà, công bằng, bác ái. Và vì thế, tôn giáo, cụ thể là các nhà tu hành (với GHCG được hiểu là các tu sĩ, linh mục, giám mục) đã bị “tục hóa”. Nói rõ hơn là đã tự đánh mất bản sắc tinh thần, tâm linh của mình. Do bị tục hóa, người ta dễ dàng du di theo chủ nghĩa tương đối với lối sống thực dụng, bao gồm cả trong cách thực hành và diễn tả niềm tin, điều hơn một lần Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã cực lực lên án.
Trở về nội dung lá thư gửi các Thày Cô giáo của Đức Cha Hoàng Đức Oanh.
Sau khi quy trách cho chủ trương gạt tư nhân và các tôn giáo ra khỏi hệ thống giáo dục quốc gia của đảng và nhà nước cộng sản đã dẫn tới những thảm trạng ngày nay, ngài nêu lên câu hỏi:
“… truớc một nền giáo dục luôn “có vấn đề” trên cửa miệng cũng như trên hệ thống truyền thông xã hội ít lâu nay, các nhà giáo có niềm tin tôn giáo như chúng ta có thể làm gì góp phần tích cực?
Và vị chủ chăn giáo phận Kontum tự trả lời:
“Hãy học nơi Thầy Giêsu. Hãy nghe những chỉ dạy của Mẹ Hội Thánh. Chúa Giêsu là vị Thầy vĩ đại nhất, Vị Thầy của mọi bậc làm Thầy, là mẫu gương của mỗi nhà giáo chúng ta. Là Thiên Chúa, Ngài đã vào đời làm người, chia sẻ thân phận con người mọi đàng, ngoại trừ tội (x. Pl 2,6-11). Ngài yêu thương và tận tụy dạy dỗ mọi người, mọi nơi, mọi lúc, cho đến chết trên thập tự, vì yêu thương (x. Ga 13,1). Ngài ”là Đường, là Sự thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).  Chỉ có Ngài mới có thể nói:“Anh em hãy học cùng Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng” (Mt 11,29).
Mẹ Hội Thánh không ngừng quan tâm và chỉ đạo con cái tích cực chăm lo công cuộc giáo dục đào tạo con người… Nhà giáo luôn phải là chứng nhân đích thực của Tin Mừng, bằng gương sáng đời sống, bằng khả năng và lương tâm nghề nghiệp, bằng các bài giảng huấn thấm nhuần tinh thần Kitô-giáo…”
Người viết những giòng này không thể gạt ra khỏi tâm tư ý nghĩ là ngoài đối tượng trực tiếp là các Thày Cô giáo, khi lên tiếng nhắn nhủ Hãy học nơi Thầy Giêsu. Hãy nghe những chỉ dạy của Mẹ Hội Thánh… Nhà giáo luôn phải là chứng nhân đích thực của Tin Mừng, bằng gương sáng đời sống… bằng các bài giảng huấn thấm nhuần tinh thần Kitô giáo”, Đức Giám Mục Hoàng Đức Oanh còn muốn gián tiếp nói với hai đối tượng khác:
* Thứ nhất là những người cầm đầu chế độ vô thần chuyên chính cộng sản Hànội, những kẻ theo chủ nghĩa vô thần, bất khoan dung tôn giáo.
* Thứ hai là những khuôn mặt chủ chăn có thực quyền và có trách nhiệm trong HĐGMVN, mà trong quá khứ, vì lý do này hay lý do khác đã tự ý thoái thác trách nhiệm của mình, hiến tặng những cơ sở giáo dục của GH cho đảng và nhà nước CS. Và ngày nay, trước sự phá sản đến tận cùng của hệ thống giáo dục, vẫn tiếp tục đóng vai trò thụ động, với thái độ “mũ ni che tai”.
Đề cập các cơ sở giáo dục của Giáo Hội và tư nhân, vị chủ chăn giáo phận Kontum tuy ngỏ lời với các Thày Cô giáo mà như muốn nói thẳng với chế độ chuyên chính CSVN. Nó không chỉ là một lời nói thẳng, mà còn mang giá trị của một đòi hỏi quyết liệt:
“Nay Nhà Nước chấp nhận xã hội hóa giáo dục và các công tác từ thiện bác ái, các quyết định quản lý toàn bộ các cơ sở giáo dục và xã hội năm 1975 có còn hiệu lực không? Hy vọng Nhà Nước sớm trao trả các cơ sở này để các tôn giáo và tư nhân có điều kiện đóng góp vào công cuộc đào tạo các người chủ tương lai của đất nước.”
Một câu hỏi được đặt ra: vấn đề giáo dục và việc đòi nhà nước giao hoàn lại những trường ốc, chủng viện mà họ đã chiếm dụng mấy chục năm qua là chuyện nhỏ hay chuyện lớn? Nó có còn bị HĐGM cho là chuyện của địa phương nên để cho địa phương giải quyết và trung ương không có trách nhiệm gì, cứ việc nhắm mắt làm ngơ, im hơi lặng tiếng theo kiểu thói đời “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”? Mà hàng xóm trong trường hợp này là ai?
Trước khi kết thúc lá thư, Đức Cha Oanh viết:
“Bên Phi châu có kể: “Người Ả rập có thói quen nằm sát tai xuống cát để nghe rõ sa mạc khóc. Khóc vì mình chưa nhận được mưa, chưa nhận được sự chăm sóc của con người, của thời tiết để trở thành mảnh đất màu mỡ phục vụ con người.” Nguyện xin Thánh Thần Chúa giúp chúng ta cũng biết ghé tai lắng nghe rõ những tiếng than của các bậc phụ huynh, của thầy cô cũng như những ai tha thiết tới tiền đồ Đất Nước.”
Tự hỏi: danh xưng “chúng ta” Đức Cha Oanh nói tới ở đây là những ai? Chắc hẳn không chỉ giới hạn nơi các tín hữu Công Giáo dưới sự chăn giắt, hướng dẫn của ngài, cũng không chỉ quy vào người mục tử giàu tinh thần trách nhiệm của giáo phận Kontum xa xôi, nhỏ bé. Người Ả Rập phủ phục trên bãi cát nóng, kiên nhẫn lắng nghe tiếng khóc của sa mạc khô cằn để ngậm ngùi, cảm thương cho nỗi khốn khó mà người dân nghèo phải đối diện trước cái viễn cảnh của những tháng ngày đói kém vì hạn hán, không mưa!
Đấy là phản ứng tự nhiên, là tiếng kêu gào, réo gọi được đáp ứng những nhu cầu vật chất, nhu cầu cơm áo.
Tuy nhiên, đã là con người với cả hai phần thể chất và tâm linh thì “không chỉ sống bằng cơm bánh”. Vượt ra ngoài và lên trên những nhu cầu cơm ăn, áo mặc và những tiện nghi vật chất, con người –nhất là những con người có niềm tin tôn giáo-, còn có những nhu cầu lớn hơn, quan trọng và cao cả hơn. Đó là nhu cầu tinh thần, nhu cầu tâm linh, bao gồm nhu cầu được hưởng dụng ngay trong đời này một hệ thống giáo dục hoàn hảo. Nó không chỉ giúp con người có thêm kiến thức, mà còn làm cho loài thụ tạo này luôn xứng đáng là loài “linh ư vạn vật” mà Thượng Đế đã phú cho ngay từ buổi đầu tạo dựng.
Người mục tử cai quản giáo phận Kontum đã có lý khi gửi tất tả những ưu tư và khát vọng sâu thẳm của ngài về hiện tình giáo dục ở Việt Nam. Còn các Giám Mục khác thì sao?

Thử nhìn vào Đại Hội Dân Chúa:
Suy nghĩ về cuộc tập hợp ở tổng giáo phận Sàigòn trong 4 ngày (từ 18 đến 21-11-2010) mệnh danh là Đại Hội Dân Chúa, những người quan tâm tới thân mệnh GHCG và Đất Nước Việt Nam không khỏi buồn lòng. Vẫn chỉ là những bài tham luận, những bài giảng thuyết, những góp ý theo khuôn mòn với những trích dẫn, bài bản có thể tìm thấy trong bất cứ những buổi gặp gỡ, hội thảo, tĩnh tâm quen thuộc nào trong các cộng đồng Công Giáo xưa nay. Những buổi thắp nến, hát kinh Hòa Bình cầu nguyện cho lý tưởng Công Bằng, Lẽ Phải và Tự Do với sự tham dự của hàng chục hàng trăm ngàn giáo dân ở tòa Khâm sứ cũ, ở giáo xứ Thái Hà, ở Tam Tòa, Đồng Chiêm và gần đây nhất là biến cố Cồn Dầu gây ra cái chết cho giáo dân, nhiều người bị bắt, bị kết án trong khi nhiều chục giáo dân khác phải bỏ xứ mà đi… đã không hề được nhắc tới một lần! Chuyện Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt bị đẩy ra ngoại quốc rồi âm thầm trở về sống như một chiếc bóng trong nhà dòng Phước Sơn ở Nho Quan cũng không hề được ai nhaắc nhở, dù chỉ một lời!
Cứ tạm coi như đấy là những chuyện ít nhiều mang màu sắc chính trị nên các Giám Mục có lý do riêng để tránh né. Điều kỳ lạ là trước cũng như sau Đại Hội, BTC gồm những khuôn mặt lớn trong HĐGM liên tiếp kêu gọi giáo dân giáo sĩ góp ý. Nhưng có những ý kiến khá cụ thể và cần thiết đã không hề được những người có trách nhiệm trong Giáo Hội quan tâm. Điển hình là bài góp ý của linh mục Nguyễn Ngọc Sơn nhân danh Ủy Ban Bác Ái Xã Hội – Caritas Việt Nam.
Là người có viễn kiến và từng viết những bài nghiên cứu, phân tích về tác vụ truyền giáo trong GHCGVN, trong bản góp ý lần này, Lm Sơn đã không ngần ngại nói tới những bất cập được tìm thấy trong lược đồ làm việc của Đại Hội Dân Chúa. Tác giả bản góp ý đã mạnh dạn đề cập những khía cạnh thường được coi là “nhạy cảm” khi viết:
“… phải nói rằng nhiều sự thật đã không được biết đến hoặc không dám nói ra vì chủ trương “dĩ hoà vi quý” và lời khuyên “đừng vạch áo cho người xem lưng” để người khác không có cớ phản bác Giáo Hội….”
Một trong những “sự thật” quan trọng là vấn đề tuyển chọn Giám Mục. Sau khi nêu lên những câu hỏi: trong số 43 GM, các ngài là ai? Được tuyển chọn như thế nào? Tại sao lại có một số hành động của GM bị cộng đồng phản đối nặng nề đến thế? lm Sơn đã thẳng thắn nêu lên những nhận xét rốt ráo sau đây:
“Tính từ năm 1960 đến 1975, việc lựa chọn các giám mục ở VN có nhiều yếu tố thuận lợi khách quan nhờ có sự hiện diện của vị Khâm sứ Toà Thánh và văn phòng khâm sứ cố vấn cho ngài. Từ sau biến cố 1975, việc chọn lựa này có sự thay đổi theo chiều hướng khác do tác động cá nhân của từng giám mục, do áp lực của những phe nhóm trong giáo phận và sự can thiệp của chính quyền, dù rằng chẳng ai dám thừa nhận điều này… Thế là có sự bàn tán đủ loại với ý kiến khen chê khác nhau. Chính quyền cũng rất quan tâm nên tham gia bằng cách gợi ý chọn người theo quan điểm của mình…. Cuối cùng, có thể người kém nhất trong bảng đề cử lại được chọn làm giám mục vì được chính quyền ủng hộ cho “tốt đạo đẹp đời”, hoặc hợp cách làm việc với giám mục chính toà… Kết quả sau cuộc tấn phong giám mục là sự nghi ngờ, kém tôn kính của hàng linh mục đối với người được chọn, sự bất mãn của giáo dân…”
Đề cập thành quả tác vụ chính của GH là truyền giáo, linh mục Nguyễn Ngọc Sơn viết:
“Chúng con mời gọi quý đại biểu nhìn lại gương sống của tổ tiên Công giáo chúng ta trong thời kỳ 1615-1885 cũng như bài học kinh nghiệm của người tín hữu Công giáo Hàn Quốc với những thành công vượt bậc trong giai đoạn đương thời 1960-2010 Từ đó chúng con đề nghị với các vị lãnh đạo GHVN đừng quá tập trung cho việc xây dựng cơ sở vật chất, cho những nghi lễ phụng tự hoành tráng bên ngoài, cho những buổi lễ kỷ niệm mang tính hình thức mỗi dịp Ngân khánh, Bổn mạng, Sinh nhật, Chịu chức, Khấn dòng… để tập trung nguồn nhân lực giúp cho người tín hữu học hỏi về Đức Giêsu Kitô, học hỏi về những giá trị sống của Tin Mừng và những kỹ năng sống cần thiết để diễn tả các giá trị ấy.
Chỉ có những con người thực tế như vậy mới có sức thuyết phục đồng bào Việt Nam tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô Giêsu của Ngài chứ không phải là những thánh đường nguy nga, nghi lễ long trọng, những bài giáo lý cao siêu, những kiểu sinh hoạt đoàn thể nặng hình thức quảng cáo

Nếu quả thật những vấn nạn do linh mục Nguyễn Ngọc Sơn nêu ra trên đây vẫn mang tính “nhạy cảm” đối với nhà cầm quyền trong nước khiến những vị cầm cân nẩy mực trong ĐHDC phải cho chìm xuồng không dám đem vào nghị trình Đại Hội thì thiết tưởng vẫn còn đó điều mong mỏi rất chính đáng của dư luận giáo dân trong và ngoài nước sau khi đọc lá thư gửi các Thày Cô giáo trong giáo phận Kontum của Đức Giám Mục Hoàng Đức Oanh trước ngày bế mạc Đại Hội Dân Chúa, là:
Phải chi bốn ngày gặp gỡ giữa các đại biểu gồm hơn 30 GM, ngót 300 linh mục, tu sĩ, giáo dân (được gạn lọc cẩn thận sao cho ‘tốt Đạo, đẹp Đời!”) trong Đại Hội Dân Chúa đừng quá chú trọng tới những phô trương bề ngoài, gạt bỏ những tham luận sáo rỗng, nặng phần trình diễn, để chỉ tập trung vào một đề tài giáo dục lồng trong nỗi trăn trở của Đức Cha Hoàng Đức Oanh thì quả là điều may cho tiền đồ Giáo Hội và Quê Hương Việt Nam.”
Một gợi ý hay một ước mơ?
Từ suy nghĩ bất chợt  trên đây, người viết hình dung tới một nghị trình trong 4 ngày gọi là Đại Hội Dân Chúa với bốn chủ đề thiết thực đựa trên những điểm căn bản được Đức GM Kontum đề cập trong lá thư gửi các Thày Cô giáo trong giáo phận của ngài nhân ngày Nhà Giáo 2010*:
Chủ đề 1 (ngày thứ nhất)
Nhận định về hiện tình giáo dục quốc gia sau hơn ba thập niên được đặt dưới sự quản lý toàn quyền của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Chủ đề 2 (ngày thứ hai)
Nhận định về tính hiệu lực hay không đối với “những quyết định quản lý toàn bộ các cơ sở giáo dục và xã hội năm 1975” khi mà trên danh nghĩa, ngày nay “Nhà Nước (đã) chấp nhận xã hội hóa giáo dục và các công tác từ thiện bác ái”?
Chủ đề 3 (ngày thứ ba)
Liệu có quá trễ để chúng ta công khai lên tiếng đòi hỏi Nhà Nước trao trả các cơ sở giáo dục, xã hội cho các tôn giáo, trong đó có GHCG, để mọi người, mọi giới “có điều kiện đóng góp vào công cuộc đào tạo các người chủ tương lai của đất nước”?
Chủ đề 4 (ngày thứ tư)
Đúc kết: Phép lạ nào sẽ xảy ra cho nền giáo dục Việt Nam sau khi đòi hỏi trên đây trở thành hiện thực?
(Tất cả các bài tham luận, giảng thuyết, đóng góp ý kiến trong Đại Hội của các đại biểu, từ giám mục, linh mục tới giáo dân, đều tập chú vào những chủ đề trên đây.)
Đọc những gợi ý vừa nêu hẳn có người sẽ phê phán là không thiết thực khi ĐHDC đã kết thúc. Tuy nhiên khi nhìn lại bản đúc kết ĐH ngày 25-11-2010, người viết chú ý tới đề nghị của Đức HY Phạm Minh Mẫn với tư cách chủ tịch ĐHDC, theo đó ngài “yêu cầu HĐGM cho phép các đại biểu và ngoài đại biểu tiếp tục góp ý gởi về một địa chỉ cho Ban thư ký”. Dịp này Đức Cha Nguyễn Văn Khảm, trưởng ban Thư Kỳ ĐH cũng “thông báo các ý kiến của các đại biểu vẫn có thể gởi về các website của Hội đồng giám mục VN và của Đại Hội Dân Chúa.” Trong bản hỏi đáp liên quan tới ĐH, để trả lời câu hỏi là Những thành phần nào có thể đóng góp ý kiến cho Đại Hội Dân Chúa? Các cộng đồng Công giáo Việt Nam hải ngoại có được góp ý không? chúng tôi cũng đọc được câu gải đáp nguyên văn như sau:Ban Tổ chức mong muốn đón nhận ý kiến của tất cả mọi người Công giáo Việt Nam, trong cũng như ngoài nước.”
Và đấy là lý do thúc đẩy chúng tôi, một tín hữu Công Giáo Việt Nam đang sinh sống ngoài đất nước, mạnh dạn viết bài này.
Nam California, Hoa Kỳ Chúa Nhật 12-12-2010
Trần Phong Vũ
(Bài viết gửi riêng cho Nữ Vương Công Lý)
* Đây chỉ là một gợi ý bất chợt của người viết nhân đọc lá thư của Đức Cha Hoàng Đức Oanh. Trên thực tế, trước tình trạng phân hóa dẫn tới nguy cơ băng hoại của Giáo Hội Công Giáo và Đất Nước Việt Nam hôm nay, với quy mô của một cuộc tập hợp được mệnh danh là Đại Hội Dân Chúa, không chỉ các GM mà bất cứ ai cũng có thể nhận ra hàng chục, hàng trăm vấn đề cụ thể cần được đem ra bàn hỏi.

No comments:

Post a Comment