Nhìn AiCâp Mong ViệtNam

Friday, December 10, 2010

Ðông Tiễn: Vàng, máu và nước mắt

Kỳ 2

Những cái chết mòn...

Qua mấy chục phút đi đò, đến mỏ vàng Ðông Tiễn, mỏ có khá nhiều người khai thác, đương nhiên là họ khai thác chui, vì nhà nước đã cấm khai thác mỏ này, gọi là “đóng mỏ.”
Mới đi từ ngoài đập đã nghe tiếng máy nổ ì ầm phía bên trong mỏ. Vậy mà nói là cấm, thấy cũng lạ!
Theo lời một người từng là đội trưởng đội truy quét khai thác vàng Ðông Tiễn thì, “cứ mỗi lần chuẩn bị truy quét là tui báo cho anh em bên trong biết để họ dọn đi hết, chỉ còn trống trơ lều trại...”
Tôi hỏi anh về những máy móc, làm sao mà dọn đi kịp với hàng loạt máy nặng hàng mấy chục tấn, rồi đất đá, quặng. Anh trả lời: “Thật ra thì nói cho có cấm vậy thôi, cấm vì người ta bị bệnh chết nhiều quá, chứ mỏ Ðông Tiễn này mà cấm thì mấy ông chính quyền, công an lấy gì mà sống? Bọn họ giàu có là nhờ anh em vàng mà lại!”
Anh cho biết thêm rằng tuy nói là cấm khai thác vàng, xây đập lấy nước tưới tiêu nông nghiệp và tránh tình trạng thanh niên khai thác vàng bị khí độc, bị bệnh lạ chết hàng loạt. Nhưng thật ra chính nhà nước cho những chủ làm vàng vay tiền mua máy móc, mua thuốc nổ để khai thác. Và thường thì chính những cán bộ địa phương, cán bộ ngân hàng nhà nước đồng lõa khai man mục đích vay tiền với chủ làm vàng để họ được vay đầu tư khai thác.
Khi đi vào khai thác, hằng tháng, chủ làm vàng phải chung chi cho cán bộ địa phương và công an. Một hệ thống làm việc khép kín, nhịp nhàng, nhưng cũng phơi bày ra trước mắt bàng dân thiên hạ mà không ai dám lên tiếng, không ai dám tố giác, vì có tố cũng không có kết quả gì mà có khi lại rước họa vào thân. Mà tố với ai?!

Những cái chết trong xã Bình Trị do đào vàng

Hàng loạt cái tên: Phan Văn Dũng, Trần Châu Lâm, Nguyễn Hùng, Lê Văn Quang, Ðặng Văn Bình, Lê Thanh Nam, Lê Quang, Huỳnh Văn Dũng, Nguyễn Văn Hiển... đã mang căn bệnh lạ, bệnh viện không thể chẩn đoán là bệnh gì. Và nhiều người trong số họ đã chết.
Ðó là chưa nói trước đây đã có nhiều cái chết như vậy nhưng chưa được biết vì câu chuyện chưa nóng lên. Và còn rất nhiều người từ nơi khác đến đây làm vàng, họ cũng không tránh khỏi bệnh lạ.
Anh Gi. kể, từ ngày anh bỏ nghề làm vàng, chuyển sang làm dịch vụ khắc văn bia, danh sách tên “khách hàng” anh làm bia toàn độ tuổi từ 18 đến 39 dầy cả vài chục trang. Những người này anh biết, họ là dân làm vàng, lúc còn sống họ quen biết anh.
“Bỏ nghề làm vàng mình làm nghề khắc văn bia, khắc tên những người bạn làm vàng chết cũng đủ sống qua ngày ông ơi!” Anh Gi. vừa nói vừa thở dài, lắc đầu.
***
Tuy là người chết nhiều như vậy, người bệnh sau khi chui hầm trở về nhiều đến mức thanh niên trong xã trở nên vắng vẻ. Không ai dám đi làm mỏ Ðông Tiễn nữa.
Nhưng các hầm mỏ vẫn hoạt động bình thường như chưa hề có gì xảy ra.
Tôi hỏi anh Th. (một trong bảy chủ hầm mỏ ở đây, có số người làm thuê lúc cao điểm lên đến cả trăm) thì được biết là người ở trong làng không làm thì các chủ hầm đi ra làng khác kiếm lao động, trong huyện không có thì đi huyện khác...
Nhưng cuối cùng ở đâu cũng không thuê được người mặc dầu thanh niên thất nghiệp ở Việt Nam đầy rẫy ra đó, vì họ nghe đồn, sợ bệnh, sợ chết. Chọn thanh niên dân tộc thiểu số là một nước cờ mới!
Những thanh niên, thậm chí nhiều em mới 16, 17 tuổi con nhà nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc theo nhau vào Ðông Tiễn làm vàng, họ đi bởi lời giới thiệu của thôn trưởng và họ vào đây làm với mức lương 1.5 triệu đồng/tháng (tương đương $75), cơm ăn ngày ba bữa, ngủ tại lán trại của chủ.
Ðương nhiên là tất cả những em dân tộc thiểu số này không hay biết gì về căn bệnh và cái chết đang rình rập quanh họ.
Và đương nhiên là với mức lương như vậy, trước đây, các em không bao giờ có được cho dù làm cật lực ở quê nhà.
Và hơn nữa, những người nữ vào khu mỏ vàng có đời sống vốn lang bạt kỳ hồ, họ không quan tâm đến ngày mai, chơi tới bến, chuyện chung đụng thân xác tập thể ở đây diễn ra vô tội vạ. Chính sự sa đọa này cũng là một ma lực.
Những khu mỏ vàng vốn là cái rốn của bệnh AISD và nạn xì ke, ma túy.
Vì đời sống quá khó khăn của những người dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng cao từ Nam chí Bắc trên đất nước này mà những thanh niên rủ nhau đi làm vàng hàng loạt, biết là khó khăn, biết là chết chóc, họ vẫn đi, lao vào như con thiêu thân.
Cho dù mỗi ngày phải nằm duỗi dọc trên chiếc tời ọp ẹp, chờ người ta bấm nút cho mô tơ quay thả mình chạy xuống một đường hầm hẹp tối tăm, ẩm thấp và đầy khí độc, phải nổ mìn phá đá lấy quặng. Môi trường làm việc vô cùng nguy hiểm, độc hại nhưng họ vẫn chấp nhận, cam chịu và lấy đó làm cơ hội đổi đời.
Và trên hết, khi mà những hầm khai thác vàng tự phát, khai thác chui còn hoạt động. Khi con người còn thất nghiệp, đói kém thì việc họ đến làm thuê cho chủ mỏ, bên thuê, bên làm thuê kết hợp với nhau là nhu cầu rất tự nhiên!

Chủ hầm mỏ vẫn phải than thở

Là chủ một “hầm chui,” không đóng thuế, không có giấy phép khai thác, phải nuôi gần 30 lao động, lúc cao điểm lên đến hàng trăm người, nhất là lúc trúng quả hoặc lúc mùa màng ruộng nương thất bát... Anh Th. nói mình cũng có nỗi khổ.
Anh Th. cho biết anh cũng đang mang bệnh lạ trong người. Nhưng không thể dừng được nữa, vì anh đã nợ ngân hàng lên đến gần cả tỉ đồng, nếu anh bỏ máy, cho thợ về cũng đồng nghĩa với anh bán nhà, gom tất cả trả được một ít nợ, số nợ còn lại thì vào tù ngồi mà trừ!
Nhưng anh còn có vợ, con nhỏ đang ăn học, anh không thể làm vậy. Nhiều lúc suy nghĩ lại, anh thấy đau khổ, ray rứt lắm. “Vàng nó có ma lực, dấn vào rồi thì hết nước rút, nhất là khi việc làm chui của mình lại được phía nhà nước bật đèn xanh!” anh Th. nói.
Cùng ngồi với tôi trong khu lán trại có thêm hai chủ hầm mỏ khác, hai người này nhìn bộ dạng rất hung hăng, dân đầu gấu, anh chị trong giang hồ. Sau một hồi nói chuyện, thăm dò, nghe anh Gi. giới thiệu tôi là em kết nghĩa của anh và uống với nhau vài ly rượu. Họ có vẻ thân thiện và cởi mở.
T. (chủ hầm mỏ bên cạnh hầm của Th.) tỏ vẻ bức xúc, anh nói rằng hiện giờ anh không có đường lui, cái anh làm lâu nay không đủ nuôi “bọn nó.” Tôi hỏi “bọn nó” là ai, T. bảo thì ai nữa ngoài cán bộ địa phương và công an.
Tôi hỏi ba người chủ hầm mỏ vì sao đã biết nguy hiểm, chết mình và chết người, vẫn cứ vay vốn cho nhiều vào làm chi mà lâm nợ, rồi lao như tên mất hướng, không gượng được.
Cả ba người đều nói chung một ý: ban đầu có lãi, kiếm được rất khá, nhưng sau bị truy quét, bị thu hồi máy móc. Sau đó có kẻ trong chính quyền địa phương bật đèn xanh cho chuộc lại máy móc với điều kiện ăn chia với họ. Vậy là xót của, chuộc lại, chuộc được thì đã hết vốn, phải vay tiếp để thuê nhân công làm việc.
Cứ như vậy trượt dài, gượng cũng không nổi. Bỏ thì thương vương thì tội. Và hệ quả là hàng trăm người rơi vào bệnh tật, chờ chết vì vàng.
Chung qui là do nhà nước quản lý lỏng lẻo, để cấp dưới tác oai tác quái, áp phe với dân đào vàng rồi tổ chức cho vay vốn, đưa nhiều người vào vòng xoáy chết người. Nếu họ quyết tâm đóng cửa hầm thì sẽ không bao giờ có chuyện cho chuộc lại máy móc rồi cho vay tiền thuê nhân công. Ðó là một sự đồng lõa!
***
Nghe đến đây, tôi không biết phải nhận xét như thế nào về cái gọi là cán bộ nhà nước ở Việt Nam. Họ sẵn sàng đánh đổi bằng nhiều cái chết của đồng loại hầu được ấm túi, no cơm và trơn tru, phè phỡn.
Có thể nói, câu chuyện vàng, máu và nước mắt ở Ðông Tiễn là một minh chứng cụ thể của tính vô cảm, mất tính người của thành phần cán bộ, của những người làm công tác quản lý chính quyền, của kẻ có tiền, có thế lực đỏ ở Việt Nam.
Và có một điều tôi dễ nhận thấy nhất là những người làm vàng, hơn 90% họ là những người thất học, thiếu hiểu biết, là nạn nhân của sách lược ngu dân mấy mươi năm nay đã được cấy trong giáo dục, tuyên truyền của nhà nước.
Câu chuyện này là một ví dụ điển hình cho vô số những câu chuyện vô nhân tính của lớp lớp cán bộ từ trung ương đến địa phương ở đất nước này.
 Xem thêm hình ảnh tại đây: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=124235&z=177

No comments:

Post a Comment