Tôi đến Tây Nguyên trong những ngày lạnh giá mùa đông. Tin tức đưa về từ miền Bắc có nơi xuống còn 0,8 độ. Phố núi mùa đông nên chắc chắn rằng “ở đây buổi chiều, quanh năm mùa đông”. Nghe anh em bảo, bây giờ phố núi không còn quanh năm mùa đông nữa, vì rừng bị tàn phá và những mảng bê tông to lớn đang sừng sững mọc lên ở khắp nơi, rồi thiên nhiên ở đây sẽ bị bức tử như Đà Lạt thôi. Tôi chậm rãi cố gắng thưởng thức sự ngọt ngào của thiên nhiên trước giờ giãy chết.
Trước khi làm một cuộc hành trình lên phố núi, tôi đã đọc bài “Vị Giám Mục nhặt rác” của tác giả Kỹ sư vườn, hình ảnh về Đức Cha Micae in đậm rõ trong tâm trí tôi. Chẳng phải khi đọc bài viết này mà tôi có sự cảm phục ngài, nhưng hơn ba năm về trước, khi tôi có dịp đến Kontum, gặp ngài ở Tòa Giám Mục, sau những câu chuyện vui vẻ râm ran hết sức đơn giản và gần gũi, tôi chào ngài để theo anh em đi thăm Đức Cơ. Ngài tiễn chúng tôi ra cửa với lời nhắn “Các cậu đi trước đi, tớ còn một chút việc, tớ sẽ đến sau”.
Chúng tôi tới Đức Cơ, thăm ngôi nhà thờ dáng dấp căn nhà của anh em dân tộc, bằng những vật liệu gỗ phên tre nứa từ địa phương, anh em tôi đã dựng nên một nơi thờ phượng đặc thù tính dân tộc J’rai. Quỳ trong ngôi nhà thờ độc đáo này, tôi cảm nhận tình thương của Chúa thât đặc biệt dành cho những kẻ nghèo, những kẻ bị bỏ rơi, tôi kính trọng đức tin đơn sơ nhưng rất trong sáng và mãnh liệt của anh em dân tộc, Chúa thật tuyệt vời, Chúa có những cách thế để bù đắp những bất công do con người gây ra.
Rời nhà thờ Đức Cơ, anh em “dụ” tôi qua biên giới vào rừng sâu hơn để thăm các làng dân tộc, thăm những tâm hồn, những con người được Chúa thương đặc biệt, Chúa dành riêng cho Chúa và cho những ai từ bỏ tất cả vì Tin Mừng. Thật đặc biệt và thật thú vị với những cảm giác lạ lùng khi đứng bên những nhà thừa sai rất bình thường vì là anh em mình, nhưng cũng rất cao cả, rất huyền nhiệm vì họ đang đứng giữa rừng sâu, giữa những con người trong sự tuyệt đối bí mật của rừng, Chúa dành riêng cho họ, Chúa dành làm phần thưởng cho họ, không một luật lệ nào, không một sự kiểm soát nào, không một thứ thói đời nào đến được với họ trừ Tin Mừng.Vượt trở lại biên giới về Việt Nam, anh em dẫn tôi về khu chợ gần biên giới, trời đã quá trưa và mệt mỏi, món dê núi được anh em giới thiệu như là đặc sản của vùng biên giới này, lạnh và đói nên chúng tôi rất vui vẻ vô tư thưởng thức. Sau cơm trưa, chúng tôi trở lại nhà thờ Đức Cơ, khi xe vào sân trong, bất ngờ chúng tôi thấy Đức Cha đang ngồi ngoài hiên, trò chuyện với những người bà con dân tộc. Ngạc nhiên và bối rối, tôi hỏi Đức Cha đến khi nào, ngài nói đến lâu rồi, không biết chúng tôi đi đâu nên ngài ngồi chờ. Tôi hỏi ngài ăn gì chưa, ngài nói ăn rồi, chúng tôi hỏi ăn cái gì và ở đâu, ngài nói ngài vào lục trong bếp, thấy có khoai và cơm, ngài đã lấy và ăn! Ăn xong ra ngoài hiên nhà thờ ngủ một giấc, tỉnh dậy khi thấy bà con dân tộc đi qua, ngồi lên trò chuyện với họ. Tôi không thể tin đây là sự thật, tôi không thể tin rằng một vị Giám Mục quyền cao chức trọng lại sinh hoạt như thế, anh em tôi bảo, ngài vẫn vậy! Vẫn vậy nghĩa là vẫn rất bình dân như vậy, vẫn xông xáo và gần gũi con cái như vậy, vẫn giản đơn và chan hòa như vậy. Khi ấy tôi không dám dùng một danh xưng nào để gán cho ngài, nhưng hôm nay, có một ông kỹ sư vườn nào đó đã dám gọi ngài là “Giám Mục nhặt rác”, xin cho tôi vô phép được gọi ngài là “Giám Mục bụi bờ”.Lần này đến Tây Nguyên, vẫn như cũ, ngài tiếp chúng tôi trong căn phòng đơn sơ tềnh toàng của ngài. Tòa nhà chung quanh thật đẹp, thấp thoáng trong bóng cây, khuôn viên rộng lớn, nhưng căn phòng của vị Giám Mục thì lại rất giản dị, bộ bàn ghế salon ngay gần bàn làm việc, bước vào phòng trong là cái giường ngủ cũ kỹ tầm thường của ngài, bước qua một gian phòng khác nữa đồ đạc sách vở lộn xộn như nhà kho, cái ngách cuối cùng là nhà vệ sinh. Những điều này biết được vì ngài bảo chúng tôi đi việc cần trước khi cùng chúng tôi rời Tòa Giám Mục. Tôi đã có dịp ghé thăm rất nhiều giáo xứ, miền xuôi cũng như miền ngược, trong kiến trúc, giá trị căn nhà được đánh giá bởi tiêu chuẩn nhà vệ sinh, cũng như khoảng cách từ nơi nghỉ hay làm việc đến nhà vệ sinh, nếu được phèp đánh giá, với cả hai tiêu chuẩn trên, xin có ý kiến rằng nhà vệ sinh của ngài thua xa rất nhiều nhà vệ sinh của nhiều cha xứ. Còn vật dụng, không có gì ngoài một cục xà bông và một vài vật dụng rất bình thường khác. Cái áo không làm nên thầy tu, nhưng nó phản ánh khá rõ nếp sống của con người, chọn lựa của con người. Tôi vẫn đầy ngạc nhiên về sự khó nghèo đơn sơ của một vị Giám Mục.
Sau hành trình thăm viếng một nơi như đã định, ngài hướng dẫn tài xế tiếp tục đi xa hơn để khám phá những con đường mới, vì quá mới nên đôi chỗ tài xế ngại ngần không dám đi tiếp. Ngài thúc giục cứ đi, và bảo đảm rằng nếu xe gặp lầy ngài sẽ xuống xe để đẩy qua chỗ lầy với mọi người, từ đó mở ra cho đoàn chúng tôi những khám phá mới. Con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, mọi người ngỡ tưởng dẫn vào một nhà máy thủy điện nào đó, ai ngờ lại là con lộ dẫn vào một làng người dân tộc Gié. Ánh mắt của ngài sáng rực lên khi nhìn ra một ngôi làng dân tộc nhấp nhô sau rặng cây bên dưới thung lũng, ngài nói luôn miệng về niềm vui khám phá này. Vào làng, bước ra khỏi xe, ngài tiến đến với những bà con dân tộc, tìm cách bắt chuyện bằng các thứ ngôn ngữ mà ngài biết được, may thay có vài người biết nói tiếng Bana, ngài vội vã ghi hình, thăm hỏi đủ thứ, trước khi chia tay ngài không quên nói với họ ngài sẽ trở lại thăm họ lần nữa. Trên xe có một số trái cây, ngài lấy đưa hết cho họ và vui vẻ chụp hình chung. Cứ vậy ngài mê mẩn với những ngôi làng dân tộc quên cả thời gian, trên xe đã có người dám vượt qua sự tế nhị để nhắc ngài rằng đã 2g00 chiều mà chúng ta chưa ăn trưa, ngài đồng ý quay xe đi tìm một quán ăn bên đường để lót dạ. Chiều xứ sở Tây nguyên đã bắt đầu có gió lạnh, cái đói càng làm chúng tôi lạnh hơn, hình như ngài không biết đói.Qua chuyến hành trình với ngài, và những gì trong quá khứ tôi có thông tin về ngài, tôi nhận ra một giá trị có thật mà ngài theo đuổi, đó là Ơn Cứu Chuộc phải đến với mọi người, gieo vãi Ơn Cứu Chuộc là quyền bất khả xâm phạm của Hội Thánh. Giám Mục cũng như mọi Kitô hữu có trách nhiệm tìm kiếm và chia sẻ Ơn Cứu Chuộc đó cho mọi người, nhất là người nghèo, người đang bị bỏ rơi hơn cả.
Nhiều năm về trước, khi được tin Tòa Thánh tuyển chọn Đức Cha Micae làm Giám Mục Kontum, tôi và một số bạn bè mỉm cười “đánh giá” không cao về con người này, nhìn chung không có gì trổi trang cả, vẫn cái nhìn rất thế gian, tiêu chuẩn bằng cấp, tiêu chuẩn trí thức, tiêu chuẩn bộ dạng,… không có cái nào đủ làm cho dư luận tin cậy. Nhưng những năm sau này, ngài trở thành vị Giám Mục dám lên tiếng về những bất công, nhưng điều quá nhức nhối của xã hội, những cách hành xử coi thường và o ép tôn giáo tại những địa phương mà ngài biết. Nơi ngài lập trường về Giáo Hội rất rõ rệt, một lập trường về tự do tôn giáo, về quyền sống và quyền làm người. Khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường, Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đã chia sẻ cho chúng tôi (những sinh viên của ông) về Đức Gioan 23, ông tỏ vẻ hối tiếc và sám hối về những nhận định sai lầm ông đã có về Đức Gioan 23, vị Giáo hoàng mà ông đã có những đánh giá sai lầm khi được tuyển chọn, vị giáo hoàng ấy đã làm nên lịch sử Hội Thánh, đã mở được cánh cửa đón lễ Ngũ Tuần lần thứ hai. Trong tôi cũng cùng một nỗi day dứt ấy, cái cám dỗ đánh giá con người qua bằng cấp, qua bộ dạng, qua những hoạt động quả thật là một cám dỗ khó vượt thoát.
Trong một bài góp ý của linh mục Chân Tín, dcct với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (2010), cha già Chân Tín đã mạnh dạn đề nghị có một vị Giám Mục dấn thân hoàn toàn cho công cuộc truyền giáo, vị Giám Mục này không có Giáo Phận phải chăm lo nhưng ngài có cả một đất nước để loan báo Tin Mừng, có bao nhiêu anh em dân tộc để dấn thân, để ăn bờ ngủ bụi, để yêu thương tìm kiếm, để mang Ơn Cứu Chuộc đến cho mọi người. Đức Cha Micae đã hé lộ cho cha già thấy về một ước mơ như vậy, một ước mơ về mục tử như lòng Chúa mong ước, xin hết lòng bái phục vị mục tử bụi bờ của Thiên Chúa.
Lm. Tùng Dương, dcct
No comments:
Post a Comment